(GMT+7)

Chi tiết câu hỏi

Câu hỏi: Về một số nội dung không đúng sự thật và không phù hợp quy định pháp luật trong Công văn số 1402/UBND ngày 22/5/2015 của UBND tỉnh Tây Ninh về việc trả lời đơn khiếu nại của bà Lê Thị Bé
Người hỏi : Thanh Long     Số điện thoại: 0985XXX151     Email: than**********@yahoo.com.vn     Địa chỉ: 9 Đường Trương Văn Kỉnh, P1, Tp.Trà Vinh
Ngày hỏi: 23/12/2015 - 11 Giờ 01 phút     Ngày chuyển: 23/12/2015 - 15 Giờ 51 phút

Nội dung câu hỏi:

Kính gửi: - Chủ tịch HĐND tỉnh Tây Ninh;

                 - Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh.

 

Tôi tên: HỒ THANH LONG, sinh năm: 1974

Địa chỉ: 9 Đường Trương Văn Kỉnh, Phường 1, Tp.Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

Điện thoại: 0985727151.

* Tóm tắt nội dung sự việc

        Vào ngày 01/03/2012, ông Hồ Văn Hành được sự ủy quyền của (bà Lê Thị Bé và bà Nguyễn Thị Hiền) có đơn khiếu nại gửi đến UBND tỉnh Tây Ninh

Ngày 13/03/2012, UBND tỉnh Tây Ninh có gửi cho gia đình tôi Công văn số 828/VP-TDVề việc truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo UBND tỉnh”. Giao cho Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh tiến hành thẩm tra, xem xét, tham mưu đề xuất Ủy ban nhân dân tỉnh. Báo cáo kết quả về Ủy ban nhân dân tỉnh trước ngày 30/4/2012 với 4 nội dung như sau:

1. Về việc UBND xã Cẩm Giang chiếm dụng đất của công dân, khi chưa lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, chưa có quyết định thu hồi đất của cấp có thẩm quyền.

2. Về việc UBND xã Cẩm Giang sử dụng đất không đúng mục đích (Theo Quyết định số 2666/QĐ-UBND ngày 13 tháng 11 năm 2008 của UBND tỉnh Tây Ninh)

3. Về nội dung của Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của UBND huyện Gò Dầu.

4. Về Quyết định số 2666/QĐ-UBND ngày 13 /11/2008 của UBND tỉnh Tây Ninh.

Vào ngày 22/05/2015, UBND tỉnh Tây Ninh ban hành Công văn số 1402/UBND về việc trả lời đơn khiếu nại của bà Lê Thị Bé

Vào ngày 22/06/2015 ông Hồ Văn Hành có đơn kiến nghị về nội dung Công văn 1402 nhưng đến nay chưa được UBND tỉnh Tây Ninh phản hồi.

Vào ngày 30/11/2015 ông Hồ Thanh Long có đơn kiến nghị về nội dung Công văn 1402 đến nay chưa được UBND tỉnh Tây Ninh phản hồi.

Gia đình chúng tôi không đồng ý với nội dung Công văn số 1402 của UBND tỉnh Tây Ninh vì có dấu hiệu vi phạm Luật Khiếu nại và một số nội dung không đúng sự thật làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

 

1. Nội dung số 1 về quá trình sử dụng đất trong Công văn 1402

Thứ nhất: Trong các lần đối thoại cũng như kết quả giải quyết khiếu nại của UBND xã Cẩm Giang, UBND huyện Gò Dầu, UBND tỉnh Tây Ninh chưa bao giờ viện dẫn được các căn cứ pháp luật cũng như các chứng cứ cụ thể để cho rằng việc sử dụng đất của bà Bé là bất hợp pháp. Công văn 1402 cho rằng khiếu nại của bà Bé không có cơ sở pháp lý là cố tình tước đi quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Gia đình tôi đã nhiều lần chứng minh việc sử dụng đất hợp pháp của mình bằng các giấy tờ hợp pháp mà Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã cấp cho gia đình tôi và căn cứ pháp luật trước đây cũng như các quy định của pháp luật hiện hành cụ thể như:

·  Chỉ thị  299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ;

·  Điều 1, Luật Đất đai năm 1988;

·  Khoản 11 Điều 2, Quyết định số 13/HĐBT ngày 01/02/ 1989 Hội đồng Bộ trưởng

·  Điều 4 Nghị định số 30-HĐBT ngày 23/3/1989 Hội đồng Bộ trưởng;

·  Luật Đất đai năm 1993;

·  Công văn số 1568/BTNMT-ĐKTKĐĐ, ngày 25 tháng 04 năm 2007 của Bộ Tài nguyên và Môi trường;

·  Điểm b khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003;

·  Điểm b khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai năm 2013

Điều 4 Nghị định số 30-HĐBT ngày 23/3/1989 của Hội đồng Bộ trưởng quy định “Người đang sử dụng đất hợp pháp là người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người có tên trong sổ địa chính” 

Đủ điều kiện được Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai 2013 “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993”.

Thứ hai: Khi không tìm được các căn cứ pháp luật cụ thể nào, để cho rằng việc sử dụng đất của bà Bé là bất hợp pháp, thì UBND tỉnh Tây Ninh cho rằng các cơ quan có thẩm quyền sơ xuất trong thời gian dài từ năm (1975 – 1997) khi cấp đất cũng như giấy tờ đối với 2 thửa đất 149, 98 cho bà Bé. Nội dung này đã phủ nhận chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước trước đây. Cụ thể là Nhà nước giao đất cho các Tập đoàn sản xuất nông nghiệp, tập đoàn mới giao lại cho các Tập đoàn viên canh tác sản xuất và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước bằng các chỉ thị thiết thực mang lại lợi ích cho người dân và được người dân cả nước đồng tình ủng hộ như:

·  Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 3/5/1983 của Ban Bí thư về việc hoàn thành điều chỉnh ruộng đất, đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở các tỉnh Nam Bộ;

·  Chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 30-HĐBT ngày 23/3/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thi hành Luật Đất đai năm 1988;

·  Quyết định số 13-HĐBT ngày 01/2/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về việc giải quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất;

·  Nghị định số 64-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ .

Ai đã từng sống trong thời kỳ đó điều biết rằng sau năm 1975 toàn bộ ruộng đất ở miền Nam đều phải đưa vào tập đoàn, hợp tác xã nông nghiệp theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ai ai cũng biết, sau đó do mô hình này không hiệu quả nên toàn bộ tập đoàn, hợp tác xã nông nghiệp ở miền Nam phải giải thể, thay thế bằng chính sách khoán sản phẩm (tức chia ruộng) nghĩa là giao đất cho từng hộ gia đình để canh tác. Diện tích đất được giao tính trên số nhân khẩu trong từng hộ gia đình dựa trên cơ sở pháp lý là điểm b Khoản 1 Điều 19 Nghị định số 30-HĐBT ngày 23/3/1989 của Hội đồng Bộ trưởng.

Trong đó gia đình bà Lê Thị Bé (6 nhân khẩu) được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giao cho bà Lê Thị Bé diện tích 3750m2 bao gồm 2 thửa đất: thửa 149 tờ bản đồ số 01 thuộc xứ đồng Hố Cạn với diện tích là 3550m2 ký hiệu (ĐM) thuộc Tập đoàn 1, ấp Cẩm Thắng, xã Cẩm Giang, huyện Gò Dầu và thửa 98 với diện tích 200m2 ký hiệu (TC) và được cấp thẩm quyền là UBND huyện Gò Dầu cấp Giấy chứng nhận đã đăng ký ruộng đất số: 282/ĐKRĐ cấp ngày 7/11/1989 theo chủ trương chính sách đất đai thời bấy giờ. Việc cấp giấy này được thực hiện theo trình tự thủ tục trên cơ sở pháp lý là “Chỉ thị 299 của Thủ tướng về công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký ruộng đất trong cả nước” được thông báo rộng rãi trên cả nước.

Nếu có cơ sở cho rằng đất này thuộc quyền sử dụng của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh tại sao tại thời điểm đó Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh không kê khai đăng ký theo Chỉ thị 299 của Thủ tướng Chính phủ???

Thứ ba: Về nội dung Công văn 1402 cho rằng thửa đất 149 thuộc quyền quản lý của Nhà nước?. Đất đai trên Lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có phần đất nào không thuộc quyền quản lý của Nhà nước? Điều này đã được Hiến pháp quy định rõ.

Sau năm 1975 thửa đất 149 do bà Bé đứng tên được Tập đoàn 1, ấp Cẩm Thắng, xã Cẩm Giang quản lý và giao cho cho Tập đoàn viên là bà Bé canh tác sản xuất và nộp thuế cho Nhà nước. Vậy thì Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh sử dụng thửa đất trên theo hình thức nào từ năm (1975 -1997)? mà trong Công văn 1402 chưa nêu được. Năm (1997- 2008) tức là thời điểm quân đội sử dụng đất của gia đình tôi để trồng cây theo hình thức lấy đại, không bồi thường và cũng không có quyết định thu hồi đất. Hành vi này có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng Điều 21 Luật Đất đai năm 1993 và Nghị định của Chính phủ số 90-CP ngày 17/8/1994 Ban hành quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.

Điều cốt lõi mà người dân đặt ra ở đây ai có quyền sử dụng hợp pháp thửa đất 149 bà Bé hay Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh. Trong trường hợp này căn cứ theo khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 nay khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 thì chỉ Tòa án mới có quyền phán quyết việc này, nhưng UBND tỉnh Tây Ninh, UBND huyện Gò Dầu đã thay lời của Tòa án ban hành công văn có nội dung khi thì cho rằng 2 thửa đất trên thuộc quyền sử dụng của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, khi thì cho rằng chính quyền đã sơ xuất khi cấp thửa đất trên cho gia đình tôi, việc làm này không đúng quy định của pháp luật và trái thẩm quyền? Khi ban hành công văn, UBND tỉnh Tây Ninh cần cẩn trọng xem xét nội dung nào có đầy đủ chứng cứ hoặc đủ căn cứ pháp lý thì ban hành. Còn ban hành công văn không đúng sự thật chỉ làm cho người dân mất niềm tin vào các Cơ quan ban hành cụ thể ở đây là Công văn 1402 có nội dung cho rằng bà Bé đồng ý trả đất cho Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Tây Ninh.

“Về vấn đề bà Bé trả đất” đã được ông Nguyễn Thành Tâm chức vụ Chủ tịch UBND xã Cẩm Giang phát biểu trong phần kết luận tại cuộc đối thoại với đầy đủ đại diện các Cơ quan ban nghành bao gồm: Phòng Tiếp dân; Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh Tây Ninh; Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, UBND huyện Gò Dầu, UBND xã Cẩm Giang vào ngày 7/11/2013 ở hội trường UBND xã Cẩm Giang “Trước đây, có 8 hộ sản xuất ở đây, cũng có Giấy chứng nhận đã đăng ký ruộng đất như hộ ông Hành. Sau này các hộ đồng ý trả đất cho Bộ Chỉ huy quân sự, còn hộ ông Hành không đồng ý”. Gia đình tôi nhiều lần khẳng định về điều này trong các biên bản làm việc với UBND xã Cẩm Giang. Đất này được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giao cho bà Bé canh tác sản xuất theo chủ trương của Đảng và Nhà nước trước đây. Gia đình tôi không giành trâu, cướp đất của ai mắc gì phải trả, trừ khi Nhà nước thu hồi đúng theo quy định của pháp luật.

Thứ tư: Việc nội dung cho rằng bà Bé trả đất lại cho Bộ Chỉ huy quận sự tỉnh Tây Ninh (Nội dụng này là không đúng sự thật như đã lập luận tại nội dung thứ ba). Giả sử có cơ sở cho rằng một phần của thuộc thửa 149 thuộc quyền của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh nay chính quyền tỉnh Tây Ninh “đòi lại”, chẳng khác nào chính quyền tỉnh Tây Ninh thừa nhận việc Nhà nước đòi lại đất Nhà nước đã giao cho Tập đoàn viên là bà Bé trực thuộc Tập đoàn 1, ấp Cẩm Thắng, xã Cẩm Giang canh tác sản xuất theo chủ trương chính sách của Nhà nước trước đây, thời kỳ đất thuộc các tập đoàn sản xuất nông nghiệp? Việc làm này của chính quyền tỉnh Tây Ninh không phù hợp với pháp luật được quy định tại Khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai 2003 nay là khoản 5 Điều 26 Luật Đất đai 2013 “Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”

Thứ năm: Trích từ công văn 1402“Các nghành chức năng đã kiểm tra đối chiếu thực tế thì thửa đất số 149, tờ bản đồ số 1 diện tích 3550m2 do bà Lê Thị Bé đứng tên trên Bản đồ 299 nằm trong thửa số 14, tờ bản đồ số 5 xã Cẩm Giang (bản đồ đo lưới 2005) có tổng diện tích là 34165m2 được UBND tỉnh Tây Ninh giao cho UBND xã Cẩm Giang quản lý theo Quyết định 2666/QĐ-UBND ngày 13/11/2008

Điều đó chứng tỏ rằng nguồn gốc thửa số 14 có diện tích 34165m2 có nguồn gốc được lấy từ một phần của thửa số 149 do bà Bé đứng tên và có tên trong sổ địa chính xã Cẩm Giang  (chứ không phải thu hồi theo đúng trình tự thủ tục được quy định tại Luật Đất đai năm 2003 và Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ).

Thửa đất 149 hiện nay do bà Bé đứng tên vẫn chưa bị Nhà nước thu hồi đất, do cấp có thẩm quyền chưa ra quyết định thu hồi diện tích đất nêu trên của gia đình tôi. Nhưng vào ngày 13/11/2008 UBND tỉnh Tây Ninh ban hành Quyết định số 2666/QĐ-UBND giao đất cho UBND xã Cẩm Giang trong đó có thửa 149 của bà Bé. Việc làm này không phù hợp với các quy định pháp luật về đất đai, xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Bé cụ thể là vi phạm Điều 32 Luật Đất đai 2003Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ.

Sau khi nhận được số diện tích đất nêu trên. UBND xã Cẩm Giang sử dụng một phần diện tích được giao trong đó có diện tích đất của gia đình tôi, để trồng mì trái mục đích sử dụng trong thời gian dài, người dân đã nhiều lần làm đơn tố cáo hành vi này gửi đến UBND huyện Gò Dầu, UBND tỉnh Tây Ninh nhưng không có kết quả giải quyết.

 

2. Nội dung số 2 trong Công văn 1402

“Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của UBND huyện Gò Dầu”

Thứ nhất: Công văn 1402 cho rằng gia đình tôi khiếu nại hành vi chiếm dụng đất của UBND xã Cẩm Giang là Khiếu nại hành vi hành chính?. Nội dung này không đúng với bản chất vụ việc. Giải thích từ ngữ theo Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2010.

Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật

Người dân khiếu nại hành vi chiếm dụng đất của UBND xã Cẩm Giang. Đây thuộc dạng tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa bà Bé với UBND xã Cẩm Giang. Cụ thể ở đây bà Bé có những giấy tờ được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 do đó căn cứ  theo khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 (hiện nay là điểm b, khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai và khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013) thì tranh chấp này do Tòa án nhân dân giải quyết, với những căn cứ nêu trên thì vụ việc tranh chấp quyền sử dụng đất giửa bà Bé với UBND xã Cẩm Giang không thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND các cấp, nên Quyết định số 95/QĐ-UBND ngày 17/8/2011 do Chủ tịch UBND xã Cẩm Giang ban hành và Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 do Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu ban hành là không đúng thẩm quyền và không có giá trị pháp lý.

Thứ hai: Tại sao UBND tỉnh Tây Ninh mâu thuẩn với chính mình trả lời bất nhất trong việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Hồ Văn Hành ban đầu thì ban hành “Công văn số 828/VP-TD ngày 13/03/2012 do ông Nguyễn Hoàng Nam phó Chánh văn phòng UBND tỉnh ký thụ lý”, sau 3 năm thì ban hành công văn trả lời là không có cơ sở thụ lý?.

Mặc khác “Tại Điều 2 của Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của UBND huyện Gò Dầu có hướng dẫn khởi kiện vụ án hành chính hoặc gửi Đơn khiếu nại tiếp theo đến Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh”?

Thụ lý đơn khiếu nại, tố cáo ngày 1/3/2012 của ông Hồ Văn Hành đến nay đã hơn 3 năm rồi ban hành công văn trả lời đơn khiếu nại theo hình thức công văn là không đúng với quy định tại Điều 17 Nghị định 136/2006/NĐ-CP của Chính phủ; Điều 37, Điều 38 Luật Khiếu nại và vi phạm thời hiệu giải quyết đơn khiếu nại được quy định tại Điều 36 Luật Khiếu nại tố cáo năm 1998 và sửa đổi bổ sung năm 2005. Dù người dân và các Cơ quan báo chí nhiều lần chuyển đơn nhắc nhở. Hành vi này đã làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của người dân đã được pháp luật quy định.

 

3. Nội dung số 3 trong Công văn 1402

“Yêu cầu xem xét cấp Giấy chứng nhận QSDĐ đối với phần diện tích còn lại khoảng 530m2 ”

Công văn 1402 cho rằng “Đối chiếu bản đồ và kiểm tra thực địa thì xác định phần diện tích đất 530m2 nêu trên nằm trong phần đất mà UBND tỉnh Tây Ninh giao cho UBND xã Cẩm Giang theo Quyết định 2666”.

   Đây là nội dung không đúng sự thật. Nhìn trên bản đồ kèm theo trong Quyết định 2666 thì bất cứ người nào có kiến thức hoặc không có kiến thức về bản đồ cũng có thể cảm nhận rõ phần đất trên nằm ngoài phạm vi quy hoạch và trên thực địa do mấy ông cắm cũng thể hiện phần đất trên nằm ngoài phạm vi quy hoạch. Có thể cán bộ tham mưu cho UBND tỉnh không đọc được bản vẽ kèm theo Quyết định 2666 và không kiểm tra thực địa (Vì cột mốc số 3 nằm trước cửa nhà tôi cách ranh đất dân là 9,39m trên bản đồ kèm theo Quyết định 2666 cũng thể hiện điều đó và gia đình tôi đã đo kiểm tra đúng theo bản vẽ là 9,39m). Do đó có thể khẳng định rằng phần đất có diện tích khoảng 530m2 do ông Hành đang trồng cây bạch đàn nằm ngoài phạm vi quy hoạch theo Quyết định 2666

 

4. Nội dung số 4 trong Công văn số 828/VP-TD ngày 13/3/2012 của Văn phòng UBND tỉnh

Thứ nhất: Việc người dân ở thôn quê đâu có ai hiểu biết hết các quy định của pháp luật cứ thấy ông nào, tổ chức nào chiếm đất thì cứ khiếu nại chứ đâu biết UBND xã Cẩm Giang được giao đất bằng quyết định không phù hợp với các quy định của pháp luật cụ thể ở đây là QĐ2666. Với cách giải quyết bỏ bớt nội dung khiếu nại trong Công văn 1402, UBND tỉnh Tây Ninh đã bỏ qua nội dung khiếu nại thứ 4 thuộc thẩm quyền giải quyết của mình “Quyết định số 2666/QĐ-UBND ngày 13 tháng 11 năm 2008 của UBND tỉnh Tây Ninhvà nội dung tố cáo trong Đơn khiếu nại ngày 1/3/2012 của ông Hồ Văn để nhằm mục đích gì? rồi còn kết luật sẽ không xem xét nội dung khiếu nại của ông Hồ Văn Hành là không phù hợp với pháp luật được quy định tại Điều 23 Luật Khiếu nại tố cáo năm 1998 và sửa đổi bổ sung năm 2005 hiện nay là Điều 21 Luật Khiếu nại năm 2011.

Thứ hai: Việc chậm trể trong việc giải quyết đơn khiếu nại ngày 1/3/2012 của ông Hồ Văn Hành hơn 3 năm, nhưng chưa được Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh công khai giải thích và xin lỗi người dân. Dù trong các đơn kiến nghị trước đây người dân đã nhiều lần nhắc đến.

  Kết luận: Điều cốt lõi mà người dân cần là một Lãnh đạo có tài, có đức, có dũng cảm nhìn nhận thấu đáo những khiếu nại của người dân để giải quyết khiếu nại dựa trên nền tản là các căn cứ pháp luật chứ không phải tìm cách đối chọi với người dân, giải quyết khiếu nại theo kiểu bỏ bớt nội dung khiếu nại rồi từ đó sử dụng công cụ khác để ban hành công văn không thụ lý khiếu nại của người dân là chưa thực hiện di huấn của Bác Hồ “Đồng bào có oan ức mới khiếu nại hoặc chưa hiểu rõ chính sách của Đảng của Chính phủ mà khiếu nại. Ta phải giải quyết nhanh, tốt thì đồng bào thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm, lo lắng đến quyền lợi của họ. Do đó, mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ ngày càng được cũng cố hơn”.

Nhằm kịp thời giải quyết những thắc mắc, kiến nghị của người dân. Đồng thời thể hiện tinh thần “Sống làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật”. Kính mong Chủ tịch HĐND tỉnh Tây Ninh; Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh sớm quan tâm xem xét giải quyết những kiến nghị của người dân.

1. Đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh trả lời cho người dân được rõ. Căn cứ theo quy định của luật nào? Để UBND tỉnh Tây Ninh lấy một phần thửa đất 149 của bà Bé không có quyết định thu hồi, không bồi hoàn theo quy định của Luật Đất đai và Nghị định hướng dẫn của Chính phủ rồi ban hành Quyết định 2666/QĐ-UBND giao thửa đất trên cho UBND xã Cẩm Giang. Quyết định này có dấu hiệu vi phạm các quy định pháp luật về đất đai, xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Bé cụ thể là vi phạm Điều 32 Luật Đất đai 2003Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ. Kính mong Các cấp thẩm quyền điều tra làm rõ để quyền sử dụng đất của người dân được đảm bảo đúng theo quy định pháp luật.

2. Thửa đất 149 do bà Bé đứng tên có tên trong sổ địa chính xã Cẩm Giang đủ điều kiện được cấp Quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 nay là điểm b khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai năm 2013. Do đó căn cứ theo khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 hiện nay khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 thì tranh chấp này do Tòa án nhân dân giải quyết. Nên việc UBND tỉnh Tây Ninh cho rằng thửa đất 149 thuộc quyền sử dụng của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh là không có căn cứ và trái thẩm quyền.

3. Kiến nghị UBND tỉnh Tây Ninh cung cấp chứng cứ, các căn cứ pháp lý để cho rằng các cấp thẩm quyền trước đây đã sơ xuất khi cấp đất và giấy tờ đất thửa số 149 và thửa số 98 cho gia đình tôi.

4. Yêu cầu UBND tỉnh Tây Ninh cung cấp chứng cứ Giấy chứng nhận đã đăng ký ruộng đất số 282/ĐKRĐ cấp ngày 7/11/1989 do bà Lê Thị Bé đứng tên trong đó có 2 thửa đất 149 và 98 tờ bản đồ số 01 (BĐ 299) là thuộc quyền sử dụng của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Tây Ninh được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao đất theo quyết định nào? hoặc “giấy tờ xác minh là đất tiếp quản, có tên trong sổ địa chính của xã, phường, thị trấn được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận đã sử dụng ổn định và không có tranh chấp”.( Theo điểm d Khoản 1 Điều 138 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/12/2004 của Chính phủ)

5. Yêu cầu UBND tỉnh Tây Ninh cung cấp giấy tờ bà Bé ký trả đất cho Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh (Nếu không cung cấp được. Đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh phải xin lỗi bà Bé về nội dung không đúng sự thật này)

6. Tại Điều 2 của Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu đã nêu “ Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại này, nếu không đồng ý thì bà Lê Thị Bé có quyền khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu. Sau đó gia đình tôi gửi đơn đến UBND tỉnh Tây Ninh và được cơ quan này thụ lý bằng Công văn số 828/VP-TD, rồi sau đó UBND tỉnh Tây Ninh ban hành công văn trả lời đơn khiếu nại số 1402 có nội dung “ Khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai” nên UBND tỉnh không thụ lý? Vậy thì Điều 2 của Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu đúng ở chổ nào?. Đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh trả lời cho người dân được rõ?.

Mặc khác đất bà Bé có trên trong sổ Địa chính xã Cẩm Giang. Căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 và khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 (hiện nay là điểm b, khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai và khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013) thì tranh chấp này do Tòa án nhân dân giải quyết, không thuộc thẩm quyền UBND các cấp. Đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh giải thích Quyết định giải quyết tranh chấp số 95/QĐ-UBND ngày 17/8/2011của Chủ tịch UBND xã Cẩm Giang và Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu đúng theo quy định của luật nào???

7. Giả sử cứ tạm cho rằng đất bà Bé không có giấy tờ theo quy định của Luật Đất đai thì việc tranh chấp đất giữa bà Bé với tổ chức là UBND xã Cẩm Giang vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh được quy định tại khoản 2 Điều 160 Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ. Vậy thì Quyết định giải quyết tranh chấp số 95/QĐ-UBND ngày 17/8/2011 của Chủ tịch UBND xã Cẩm Giang và Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu là vượt quá thẩm quyền và trái pháp luật? Việc UBND tỉnh Tây Ninh ban hành Công văn 1402 có nhiều điều bất ổn trong cách vận dụng các căn cứ pháp luật như đã nêu trên thì Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh cần phải dũng cảm hủy bỏ Công văn 1402/UBND ngày 22/5/2015 của UBND tỉnh Tây Ninh về việc trả lời đơn khiếu nại của bà Lê Thị Bé. Đồng thời xử lý kỷ luật cán bộ đã tham mưu cho UBND tỉnh Tây Ninh ban hành công văn có nhiều nội dung không đúng quy định pháp luật và không đúng sự thật gây thiệt hại đến lợi ích của người dân. 

8. Thay vì ra Quyết định giải quyết đơn khiếu nại của ông Hồ Văn Hành (theo ủy quyền của bà Lê Thị Bé), UBND tỉnh lại ban hành Công văn để trả lời đơn khiếu nại của người dân. Việc làm trên của UBND tỉnh Tây Ninh đã phạm phải trường hợp bị nghiêm cấm khi giải quyết khiếu nại được quy định tại khoản 3 Điều 6 Luật Khiếu nại năm 2011 Ra quyết định giải quyết khiếu nại không bằng hình thức ra quyết định.

9.  Kiến nghị Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh có ý kiến chỉ đạo hoặc tự mình ban hành Quyết định hủy bỏ Quyết định giải quyết tranh chấp số 95/QĐ-UBND ngày 17/8/2011 của Chủ tịch UBND xã Cẩm Giang và Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu.

10. Kiến nghị Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh ban hành quyết định giải quyết Đơn khiếu nại ngày 1/3/2012 của ông Hồ Văn Hành theo đúng quy định của pháp luật. Nhằm để người dân có cơ sở pháp lý làm căn cứ khởi kiện vụ án hành chính hoặc chấm dứt khiếu nại.

11. Kiến nghị Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh công khai xin lỗi bà Bé về việc chậm trể trong việc giải quyết đơn khiếu nại ngày 1/3/2012 của ông Hồ Văn Hành. Điều này thể hiện việc ứng xử có văn hóa giữa các cơ quan công quyền với người dân.

12. Kiến nghị xác minh làm rõ việc trước đây người dân tố cáo việc UBND xã Cẩm Giang lấy một phần đất được giao theo QĐ2666 trong đó có đất của bà Bé để trồng mì (trái mục đích sử dụng) trong thời gian dài nhưng UBND huyện Gò Dầu và UBND tỉnh Tây Ninh không giải quyết?(Đơn khiếu nại tố cáo ngày 28/9/2011 gửi UBND huyện Gò Dầu và Đơn khiếu nại tố cáo ngày 1/3/2012 gửi UBND tỉnh Tây Ninh)


Trả lời câu hỏi
Đơn vị trả lời: VP UBND Tỉnh     (Đã được chỉnh sửa)
Thời gian trả lời: 07/01/2016 - 15 Giờ 24 phút
Đánh giá câu trả lời:     0 lượt đánh giá

Nội dung câu trả lời:

Chào Bạn, về vấn đề của bạn hỏi, chúng tôi xin tiếp nhận và tham mưu lãnh đạo UBND tỉnh. Bạn có thể vào trang web: http://tiepdan.tayninh.gov.vn, mục "Kết quả tiếp công dân" hoặc liên hệ trực tiếp Trụ sở Tiếp công dân, Hẻm số 03, Đường Võ Thị Sáu, Thành phố Tây Ninh, số điện thoại: 066.38.22023

 

Trân trọng./.

 

Lịch sử chỉnh sửa

Chuyển câu hỏi:

 Đơn vị tiếp nhận:



 Ghi chú:

Thông tin câu hỏi:

 Tiêu đề câu hỏi: Về một số nội dung không đúng sự thật và không phù hợp quy định pháp luật trong Công văn số 1402/UBND ngày 22/5/2015 của UBND tỉnh Tây Ninh về việc trả lời đơn khiếu nại của bà Lê Thị Bé
 Nội dung câu hỏi:

Kính gửi: - Chủ tịch HĐND tỉnh Tây Ninh;

                 - Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh.

 

Tôi tên: HỒ THANH LONG, sinh năm: 1974

Địa chỉ: 9 Đường Trương Văn Kỉnh, Phường 1, Tp.Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

Điện thoại: 0985727151.

* Tóm tắt nội dung sự việc

        Vào ngày 01/03/2012, ông Hồ Văn Hành được sự ủy quyền của (bà Lê Thị Bé và bà Nguyễn Thị Hiền) có đơn khiếu nại gửi đến UBND tỉnh Tây Ninh

Ngày 13/03/2012, UBND tỉnh Tây Ninh có gửi cho gia đình tôi Công văn số 828/VP-TDVề việc truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo UBND tỉnh”. Giao cho Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh tiến hành thẩm tra, xem xét, tham mưu đề xuất Ủy ban nhân dân tỉnh. Báo cáo kết quả về Ủy ban nhân dân tỉnh trước ngày 30/4/2012 với 4 nội dung như sau:

1. Về việc UBND xã Cẩm Giang chiếm dụng đất của công dân, khi chưa lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, chưa có quyết định thu hồi đất của cấp có thẩm quyền.

2. Về việc UBND xã Cẩm Giang sử dụng đất không đúng mục đích (Theo Quyết định số 2666/QĐ-UBND ngày 13 tháng 11 năm 2008 của UBND tỉnh Tây Ninh)

3. Về nội dung của Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của UBND huyện Gò Dầu.

4. Về Quyết định số 2666/QĐ-UBND ngày 13 /11/2008 của UBND tỉnh Tây Ninh.

Vào ngày 22/05/2015, UBND tỉnh Tây Ninh ban hành Công văn số 1402/UBND về việc trả lời đơn khiếu nại của bà Lê Thị Bé

Vào ngày 22/06/2015 ông Hồ Văn Hành có đơn kiến nghị về nội dung Công văn 1402 nhưng đến nay chưa được UBND tỉnh Tây Ninh phản hồi.

Vào ngày 30/11/2015 ông Hồ Thanh Long có đơn kiến nghị về nội dung Công văn 1402 đến nay chưa được UBND tỉnh Tây Ninh phản hồi.

Gia đình chúng tôi không đồng ý với nội dung Công văn số 1402 của UBND tỉnh Tây Ninh vì có dấu hiệu vi phạm Luật Khiếu nại và một số nội dung không đúng sự thật làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

 

1. Nội dung số 1 về quá trình sử dụng đất trong Công văn 1402

Thứ nhất: Trong các lần đối thoại cũng như kết quả giải quyết khiếu nại của UBND xã Cẩm Giang, UBND huyện Gò Dầu, UBND tỉnh Tây Ninh chưa bao giờ viện dẫn được các căn cứ pháp luật cũng như các chứng cứ cụ thể để cho rằng việc sử dụng đất của bà Bé là bất hợp pháp. Công văn 1402 cho rằng khiếu nại của bà Bé không có cơ sở pháp lý là cố tình tước đi quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Gia đình tôi đã nhiều lần chứng minh việc sử dụng đất hợp pháp của mình bằng các giấy tờ hợp pháp mà Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã cấp cho gia đình tôi và căn cứ pháp luật trước đây cũng như các quy định của pháp luật hiện hành cụ thể như:

·  Chỉ thị  299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ;

·  Điều 1, Luật Đất đai năm 1988;

·  Khoản 11 Điều 2, Quyết định số 13/HĐBT ngày 01/02/ 1989 Hội đồng Bộ trưởng

·  Điều 4 Nghị định số 30-HĐBT ngày 23/3/1989 Hội đồng Bộ trưởng;

·  Luật Đất đai năm 1993;

·  Công văn số 1568/BTNMT-ĐKTKĐĐ, ngày 25 tháng 04 năm 2007 của Bộ Tài nguyên và Môi trường;

·  Điểm b khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003;

·  Điểm b khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai năm 2013

Điều 4 Nghị định số 30-HĐBT ngày 23/3/1989 của Hội đồng Bộ trưởng quy định “Người đang sử dụng đất hợp pháp là người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người có tên trong sổ địa chính” 

Đủ điều kiện được Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai 2013 “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993”.

Thứ hai: Khi không tìm được các căn cứ pháp luật cụ thể nào, để cho rằng việc sử dụng đất của bà Bé là bất hợp pháp, thì UBND tỉnh Tây Ninh cho rằng các cơ quan có thẩm quyền sơ xuất trong thời gian dài từ năm (1975 – 1997) khi cấp đất cũng như giấy tờ đối với 2 thửa đất 149, 98 cho bà Bé. Nội dung này đã phủ nhận chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước trước đây. Cụ thể là Nhà nước giao đất cho các Tập đoàn sản xuất nông nghiệp, tập đoàn mới giao lại cho các Tập đoàn viên canh tác sản xuất và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước bằng các chỉ thị thiết thực mang lại lợi ích cho người dân và được người dân cả nước đồng tình ủng hộ như:

·  Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 3/5/1983 của Ban Bí thư về việc hoàn thành điều chỉnh ruộng đất, đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở các tỉnh Nam Bộ;

·  Chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 30-HĐBT ngày 23/3/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thi hành Luật Đất đai năm 1988;

·  Quyết định số 13-HĐBT ngày 01/2/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về việc giải quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất;

·  Nghị định số 64-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ .

Ai đã từng sống trong thời kỳ đó điều biết rằng sau năm 1975 toàn bộ ruộng đất ở miền Nam đều phải đưa vào tập đoàn, hợp tác xã nông nghiệp theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ai ai cũng biết, sau đó do mô hình này không hiệu quả nên toàn bộ tập đoàn, hợp tác xã nông nghiệp ở miền Nam phải giải thể, thay thế bằng chính sách khoán sản phẩm (tức chia ruộng) nghĩa là giao đất cho từng hộ gia đình để canh tác. Diện tích đất được giao tính trên số nhân khẩu trong từng hộ gia đình dựa trên cơ sở pháp lý là điểm b Khoản 1 Điều 19 Nghị định số 30-HĐBT ngày 23/3/1989 của Hội đồng Bộ trưởng.

Trong đó gia đình bà Lê Thị Bé (6 nhân khẩu) được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giao cho bà Lê Thị Bé diện tích 3750m2 bao gồm 2 thửa đất: thửa 149 tờ bản đồ số 01 thuộc xứ đồng Hố Cạn với diện tích là 3550m2 ký hiệu (ĐM) thuộc Tập đoàn 1, ấp Cẩm Thắng, xã Cẩm Giang, huyện Gò Dầu và thửa 98 với diện tích 200m2 ký hiệu (TC) và được cấp thẩm quyền là UBND huyện Gò Dầu cấp Giấy chứng nhận đã đăng ký ruộng đất số: 282/ĐKRĐ cấp ngày 7/11/1989 theo chủ trương chính sách đất đai thời bấy giờ. Việc cấp giấy này được thực hiện theo trình tự thủ tục trên cơ sở pháp lý là “Chỉ thị 299 của Thủ tướng về công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký ruộng đất trong cả nước” được thông báo rộng rãi trên cả nước.

Nếu có cơ sở cho rằng đất này thuộc quyền sử dụng của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh tại sao tại thời điểm đó Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh không kê khai đăng ký theo Chỉ thị 299 của Thủ tướng Chính phủ???

Thứ ba: Về nội dung Công văn 1402 cho rằng thửa đất 149 thuộc quyền quản lý của Nhà nước?. Đất đai trên Lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có phần đất nào không thuộc quyền quản lý của Nhà nước? Điều này đã được Hiến pháp quy định rõ.

Sau năm 1975 thửa đất 149 do bà Bé đứng tên được Tập đoàn 1, ấp Cẩm Thắng, xã Cẩm Giang quản lý và giao cho cho Tập đoàn viên là bà Bé canh tác sản xuất và nộp thuế cho Nhà nước. Vậy thì Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh sử dụng thửa đất trên theo hình thức nào từ năm (1975 -1997)? mà trong Công văn 1402 chưa nêu được. Năm (1997- 2008) tức là thời điểm quân đội sử dụng đất của gia đình tôi để trồng cây theo hình thức lấy đại, không bồi thường và cũng không có quyết định thu hồi đất. Hành vi này có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng Điều 21 Luật Đất đai năm 1993 và Nghị định của Chính phủ số 90-CP ngày 17/8/1994 Ban hành quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.

Điều cốt lõi mà người dân đặt ra ở đây ai có quyền sử dụng hợp pháp thửa đất 149 bà Bé hay Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh. Trong trường hợp này căn cứ theo khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 nay khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 thì chỉ Tòa án mới có quyền phán quyết việc này, nhưng UBND tỉnh Tây Ninh, UBND huyện Gò Dầu đã thay lời của Tòa án ban hành công văn có nội dung khi thì cho rằng 2 thửa đất trên thuộc quyền sử dụng của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, khi thì cho rằng chính quyền đã sơ xuất khi cấp thửa đất trên cho gia đình tôi, việc làm này không đúng quy định của pháp luật và trái thẩm quyền? Khi ban hành công văn, UBND tỉnh Tây Ninh cần cẩn trọng xem xét nội dung nào có đầy đủ chứng cứ hoặc đủ căn cứ pháp lý thì ban hành. Còn ban hành công văn không đúng sự thật chỉ làm cho người dân mất niềm tin vào các Cơ quan ban hành cụ thể ở đây là Công văn 1402 có nội dung cho rằng bà Bé đồng ý trả đất cho Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Tây Ninh.

“Về vấn đề bà Bé trả đất” đã được ông Nguyễn Thành Tâm chức vụ Chủ tịch UBND xã Cẩm Giang phát biểu trong phần kết luận tại cuộc đối thoại với đầy đủ đại diện các Cơ quan ban nghành bao gồm: Phòng Tiếp dân; Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh Tây Ninh; Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, UBND huyện Gò Dầu, UBND xã Cẩm Giang vào ngày 7/11/2013 ở hội trường UBND xã Cẩm Giang “Trước đây, có 8 hộ sản xuất ở đây, cũng có Giấy chứng nhận đã đăng ký ruộng đất như hộ ông Hành. Sau này các hộ đồng ý trả đất cho Bộ Chỉ huy quân sự, còn hộ ông Hành không đồng ý”. Gia đình tôi nhiều lần khẳng định về điều này trong các biên bản làm việc với UBND xã Cẩm Giang. Đất này được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giao cho bà Bé canh tác sản xuất theo chủ trương của Đảng và Nhà nước trước đây. Gia đình tôi không giành trâu, cướp đất của ai mắc gì phải trả, trừ khi Nhà nước thu hồi đúng theo quy định của pháp luật.

Thứ tư: Việc nội dung cho rằng bà Bé trả đất lại cho Bộ Chỉ huy quận sự tỉnh Tây Ninh (Nội dụng này là không đúng sự thật như đã lập luận tại nội dung thứ ba). Giả sử có cơ sở cho rằng một phần của thuộc thửa 149 thuộc quyền của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh nay chính quyền tỉnh Tây Ninh “đòi lại”, chẳng khác nào chính quyền tỉnh Tây Ninh thừa nhận việc Nhà nước đòi lại đất Nhà nước đã giao cho Tập đoàn viên là bà Bé trực thuộc Tập đoàn 1, ấp Cẩm Thắng, xã Cẩm Giang canh tác sản xuất theo chủ trương chính sách của Nhà nước trước đây, thời kỳ đất thuộc các tập đoàn sản xuất nông nghiệp? Việc làm này của chính quyền tỉnh Tây Ninh không phù hợp với pháp luật được quy định tại Khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai 2003 nay là khoản 5 Điều 26 Luật Đất đai 2013 “Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”

Thứ năm: Trích từ công văn 1402“Các nghành chức năng đã kiểm tra đối chiếu thực tế thì thửa đất số 149, tờ bản đồ số 1 diện tích 3550m2 do bà Lê Thị Bé đứng tên trên Bản đồ 299 nằm trong thửa số 14, tờ bản đồ số 5 xã Cẩm Giang (bản đồ đo lưới 2005) có tổng diện tích là 34165m2 được UBND tỉnh Tây Ninh giao cho UBND xã Cẩm Giang quản lý theo Quyết định 2666/QĐ-UBND ngày 13/11/2008

Điều đó chứng tỏ rằng nguồn gốc thửa số 14 có diện tích 34165m2 có nguồn gốc được lấy từ một phần của thửa số 149 do bà Bé đứng tên và có tên trong sổ địa chính xã Cẩm Giang  (chứ không phải thu hồi theo đúng trình tự thủ tục được quy định tại Luật Đất đai năm 2003 và Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ).

Thửa đất 149 hiện nay do bà Bé đứng tên vẫn chưa bị Nhà nước thu hồi đất, do cấp có thẩm quyền chưa ra quyết định thu hồi diện tích đất nêu trên của gia đình tôi. Nhưng vào ngày 13/11/2008 UBND tỉnh Tây Ninh ban hành Quyết định số 2666/QĐ-UBND giao đất cho UBND xã Cẩm Giang trong đó có thửa 149 của bà Bé. Việc làm này không phù hợp với các quy định pháp luật về đất đai, xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Bé cụ thể là vi phạm Điều 32 Luật Đất đai 2003Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ.

Sau khi nhận được số diện tích đất nêu trên. UBND xã Cẩm Giang sử dụng một phần diện tích được giao trong đó có diện tích đất của gia đình tôi, để trồng mì trái mục đích sử dụng trong thời gian dài, người dân đã nhiều lần làm đơn tố cáo hành vi này gửi đến UBND huyện Gò Dầu, UBND tỉnh Tây Ninh nhưng không có kết quả giải quyết.

 

2. Nội dung số 2 trong Công văn 1402

“Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của UBND huyện Gò Dầu”

Thứ nhất: Công văn 1402 cho rằng gia đình tôi khiếu nại hành vi chiếm dụng đất của UBND xã Cẩm Giang là Khiếu nại hành vi hành chính?. Nội dung này không đúng với bản chất vụ việc. Giải thích từ ngữ theo Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2010.

Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật

Người dân khiếu nại hành vi chiếm dụng đất của UBND xã Cẩm Giang. Đây thuộc dạng tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa bà Bé với UBND xã Cẩm Giang. Cụ thể ở đây bà Bé có những giấy tờ được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 do đó căn cứ  theo khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 (hiện nay là điểm b, khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai và khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013) thì tranh chấp này do Tòa án nhân dân giải quyết, với những căn cứ nêu trên thì vụ việc tranh chấp quyền sử dụng đất giửa bà Bé với UBND xã Cẩm Giang không thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND các cấp, nên Quyết định số 95/QĐ-UBND ngày 17/8/2011 do Chủ tịch UBND xã Cẩm Giang ban hành và Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 do Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu ban hành là không đúng thẩm quyền và không có giá trị pháp lý.

Thứ hai: Tại sao UBND tỉnh Tây Ninh mâu thuẩn với chính mình trả lời bất nhất trong việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Hồ Văn Hành ban đầu thì ban hành “Công văn số 828/VP-TD ngày 13/03/2012 do ông Nguyễn Hoàng Nam phó Chánh văn phòng UBND tỉnh ký thụ lý”, sau 3 năm thì ban hành công văn trả lời là không có cơ sở thụ lý?.

Mặc khác “Tại Điều 2 của Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của UBND huyện Gò Dầu có hướng dẫn khởi kiện vụ án hành chính hoặc gửi Đơn khiếu nại tiếp theo đến Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh”?

Thụ lý đơn khiếu nại, tố cáo ngày 1/3/2012 của ông Hồ Văn Hành đến nay đã hơn 3 năm rồi ban hành công văn trả lời đơn khiếu nại theo hình thức công văn là không đúng với quy định tại Điều 17 Nghị định 136/2006/NĐ-CP của Chính phủ; Điều 37, Điều 38 Luật Khiếu nại và vi phạm thời hiệu giải quyết đơn khiếu nại được quy định tại Điều 36 Luật Khiếu nại tố cáo năm 1998 và sửa đổi bổ sung năm 2005. Dù người dân và các Cơ quan báo chí nhiều lần chuyển đơn nhắc nhở. Hành vi này đã làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của người dân đã được pháp luật quy định.

 

3. Nội dung số 3 trong Công văn 1402

“Yêu cầu xem xét cấp Giấy chứng nhận QSDĐ đối với phần diện tích còn lại khoảng 530m2 ”

Công văn 1402 cho rằng “Đối chiếu bản đồ và kiểm tra thực địa thì xác định phần diện tích đất 530m2 nêu trên nằm trong phần đất mà UBND tỉnh Tây Ninh giao cho UBND xã Cẩm Giang theo Quyết định 2666”.

   Đây là nội dung không đúng sự thật. Nhìn trên bản đồ kèm theo trong Quyết định 2666 thì bất cứ người nào có kiến thức hoặc không có kiến thức về bản đồ cũng có thể cảm nhận rõ phần đất trên nằm ngoài phạm vi quy hoạch và trên thực địa do mấy ông cắm cũng thể hiện phần đất trên nằm ngoài phạm vi quy hoạch. Có thể cán bộ tham mưu cho UBND tỉnh không đọc được bản vẽ kèm theo Quyết định 2666 và không kiểm tra thực địa (Vì cột mốc số 3 nằm trước cửa nhà tôi cách ranh đất dân là 9,39m trên bản đồ kèm theo Quyết định 2666 cũng thể hiện điều đó và gia đình tôi đã đo kiểm tra đúng theo bản vẽ là 9,39m). Do đó có thể khẳng định rằng phần đất có diện tích khoảng 530m2 do ông Hành đang trồng cây bạch đàn nằm ngoài phạm vi quy hoạch theo Quyết định 2666

 

4. Nội dung số 4 trong Công văn số 828/VP-TD ngày 13/3/2012 của Văn phòng UBND tỉnh

Thứ nhất: Việc người dân ở thôn quê đâu có ai hiểu biết hết các quy định của pháp luật cứ thấy ông nào, tổ chức nào chiếm đất thì cứ khiếu nại chứ đâu biết UBND xã Cẩm Giang được giao đất bằng quyết định không phù hợp với các quy định của pháp luật cụ thể ở đây là QĐ2666. Với cách giải quyết bỏ bớt nội dung khiếu nại trong Công văn 1402, UBND tỉnh Tây Ninh đã bỏ qua nội dung khiếu nại thứ 4 thuộc thẩm quyền giải quyết của mình “Quyết định số 2666/QĐ-UBND ngày 13 tháng 11 năm 2008 của UBND tỉnh Tây Ninhvà nội dung tố cáo trong Đơn khiếu nại ngày 1/3/2012 của ông Hồ Văn để nhằm mục đích gì? rồi còn kết luật sẽ không xem xét nội dung khiếu nại của ông Hồ Văn Hành là không phù hợp với pháp luật được quy định tại Điều 23 Luật Khiếu nại tố cáo năm 1998 và sửa đổi bổ sung năm 2005 hiện nay là Điều 21 Luật Khiếu nại năm 2011.

Thứ hai: Việc chậm trể trong việc giải quyết đơn khiếu nại ngày 1/3/2012 của ông Hồ Văn Hành hơn 3 năm, nhưng chưa được Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh công khai giải thích và xin lỗi người dân. Dù trong các đơn kiến nghị trước đây người dân đã nhiều lần nhắc đến.

  Kết luận: Điều cốt lõi mà người dân cần là một Lãnh đạo có tài, có đức, có dũng cảm nhìn nhận thấu đáo những khiếu nại của người dân để giải quyết khiếu nại dựa trên nền tản là các căn cứ pháp luật chứ không phải tìm cách đối chọi với người dân, giải quyết khiếu nại theo kiểu bỏ bớt nội dung khiếu nại rồi từ đó sử dụng công cụ khác để ban hành công văn không thụ lý khiếu nại của người dân là chưa thực hiện di huấn của Bác Hồ “Đồng bào có oan ức mới khiếu nại hoặc chưa hiểu rõ chính sách của Đảng của Chính phủ mà khiếu nại. Ta phải giải quyết nhanh, tốt thì đồng bào thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm, lo lắng đến quyền lợi của họ. Do đó, mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ ngày càng được cũng cố hơn”.

Nhằm kịp thời giải quyết những thắc mắc, kiến nghị của người dân. Đồng thời thể hiện tinh thần “Sống làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật”. Kính mong Chủ tịch HĐND tỉnh Tây Ninh; Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh sớm quan tâm xem xét giải quyết những kiến nghị của người dân.

1. Đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh trả lời cho người dân được rõ. Căn cứ theo quy định của luật nào? Để UBND tỉnh Tây Ninh lấy một phần thửa đất 149 của bà Bé không có quyết định thu hồi, không bồi hoàn theo quy định của Luật Đất đai và Nghị định hướng dẫn của Chính phủ rồi ban hành Quyết định 2666/QĐ-UBND giao thửa đất trên cho UBND xã Cẩm Giang. Quyết định này có dấu hiệu vi phạm các quy định pháp luật về đất đai, xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Bé cụ thể là vi phạm Điều 32 Luật Đất đai 2003Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ. Kính mong Các cấp thẩm quyền điều tra làm rõ để quyền sử dụng đất của người dân được đảm bảo đúng theo quy định pháp luật.

2. Thửa đất 149 do bà Bé đứng tên có tên trong sổ địa chính xã Cẩm Giang đủ điều kiện được cấp Quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 nay là điểm b khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai năm 2013. Do đó căn cứ theo khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 hiện nay khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 thì tranh chấp này do Tòa án nhân dân giải quyết. Nên việc UBND tỉnh Tây Ninh cho rằng thửa đất 149 thuộc quyền sử dụng của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh là không có căn cứ và trái thẩm quyền.

3. Kiến nghị UBND tỉnh Tây Ninh cung cấp chứng cứ, các căn cứ pháp lý để cho rằng các cấp thẩm quyền trước đây đã sơ xuất khi cấp đất và giấy tờ đất thửa số 149 và thửa số 98 cho gia đình tôi.

4. Yêu cầu UBND tỉnh Tây Ninh cung cấp chứng cứ Giấy chứng nhận đã đăng ký ruộng đất số 282/ĐKRĐ cấp ngày 7/11/1989 do bà Lê Thị Bé đứng tên trong đó có 2 thửa đất 149 và 98 tờ bản đồ số 01 (BĐ 299) là thuộc quyền sử dụng của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Tây Ninh được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao đất theo quyết định nào? hoặc “giấy tờ xác minh là đất tiếp quản, có tên trong sổ địa chính của xã, phường, thị trấn được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận đã sử dụng ổn định và không có tranh chấp”.( Theo điểm d Khoản 1 Điều 138 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/12/2004 của Chính phủ)

5. Yêu cầu UBND tỉnh Tây Ninh cung cấp giấy tờ bà Bé ký trả đất cho Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh (Nếu không cung cấp được. Đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh phải xin lỗi bà Bé về nội dung không đúng sự thật này)

6. Tại Điều 2 của Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu đã nêu “ Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại này, nếu không đồng ý thì bà Lê Thị Bé có quyền khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu. Sau đó gia đình tôi gửi đơn đến UBND tỉnh Tây Ninh và được cơ quan này thụ lý bằng Công văn số 828/VP-TD, rồi sau đó UBND tỉnh Tây Ninh ban hành công văn trả lời đơn khiếu nại số 1402 có nội dung “ Khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai” nên UBND tỉnh không thụ lý? Vậy thì Điều 2 của Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu đúng ở chổ nào?. Đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh trả lời cho người dân được rõ?.

Mặc khác đất bà Bé có trên trong sổ Địa chính xã Cẩm Giang. Căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 và khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 (hiện nay là điểm b, khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai và khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013) thì tranh chấp này do Tòa án nhân dân giải quyết, không thuộc thẩm quyền UBND các cấp. Đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh giải thích Quyết định giải quyết tranh chấp số 95/QĐ-UBND ngày 17/8/2011của Chủ tịch UBND xã Cẩm Giang và Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu đúng theo quy định của luật nào???

7. Giả sử cứ tạm cho rằng đất bà Bé không có giấy tờ theo quy định của Luật Đất đai thì việc tranh chấp đất giữa bà Bé với tổ chức là UBND xã Cẩm Giang vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh được quy định tại khoản 2 Điều 160 Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ. Vậy thì Quyết định giải quyết tranh chấp số 95/QĐ-UBND ngày 17/8/2011 của Chủ tịch UBND xã Cẩm Giang và Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu là vượt quá thẩm quyền và trái pháp luật? Việc UBND tỉnh Tây Ninh ban hành Công văn 1402 có nhiều điều bất ổn trong cách vận dụng các căn cứ pháp luật như đã nêu trên thì Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh cần phải dũng cảm hủy bỏ Công văn 1402/UBND ngày 22/5/2015 của UBND tỉnh Tây Ninh về việc trả lời đơn khiếu nại của bà Lê Thị Bé. Đồng thời xử lý kỷ luật cán bộ đã tham mưu cho UBND tỉnh Tây Ninh ban hành công văn có nhiều nội dung không đúng quy định pháp luật và không đúng sự thật gây thiệt hại đến lợi ích của người dân. 

8. Thay vì ra Quyết định giải quyết đơn khiếu nại của ông Hồ Văn Hành (theo ủy quyền của bà Lê Thị Bé), UBND tỉnh lại ban hành Công văn để trả lời đơn khiếu nại của người dân. Việc làm trên của UBND tỉnh Tây Ninh đã phạm phải trường hợp bị nghiêm cấm khi giải quyết khiếu nại được quy định tại khoản 3 Điều 6 Luật Khiếu nại năm 2011 Ra quyết định giải quyết khiếu nại không bằng hình thức ra quyết định.

9.  Kiến nghị Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh có ý kiến chỉ đạo hoặc tự mình ban hành Quyết định hủy bỏ Quyết định giải quyết tranh chấp số 95/QĐ-UBND ngày 17/8/2011 của Chủ tịch UBND xã Cẩm Giang và Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu.

10. Kiến nghị Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh ban hành quyết định giải quyết Đơn khiếu nại ngày 1/3/2012 của ông Hồ Văn Hành theo đúng quy định của pháp luật. Nhằm để người dân có cơ sở pháp lý làm căn cứ khởi kiện vụ án hành chính hoặc chấm dứt khiếu nại.

11. Kiến nghị Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh công khai xin lỗi bà Bé về việc chậm trể trong việc giải quyết đơn khiếu nại ngày 1/3/2012 của ông Hồ Văn Hành. Điều này thể hiện việc ứng xử có văn hóa giữa các cơ quan công quyền với người dân.

12. Kiến nghị xác minh làm rõ việc trước đây người dân tố cáo việc UBND xã Cẩm Giang lấy một phần đất được giao theo QĐ2666 trong đó có đất của bà Bé để trồng mì (trái mục đích sử dụng) trong thời gian dài nhưng UBND huyện Gò Dầu và UBND tỉnh Tây Ninh không giải quyết?(Đơn khiếu nại tố cáo ngày 28/9/2011 gửi UBND huyện Gò Dầu và Đơn khiếu nại tố cáo ngày 1/3/2012 gửi UBND tỉnh Tây Ninh)

 Lý do từ chối:

Trả lời câu hỏi

Nội dung câu hỏi:

Kính gửi: - Chủ tịch HĐND tỉnh Tây Ninh;

                 - Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh.

 

Tôi tên: HỒ THANH LONG, sinh năm: 1974

Địa chỉ: 9 Đường Trương Văn Kỉnh, Phường 1, Tp.Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

Điện thoại: 0985727151.

* Tóm tắt nội dung sự việc

        Vào ngày 01/03/2012, ông Hồ Văn Hành được sự ủy quyền của (bà Lê Thị Bé và bà Nguyễn Thị Hiền) có đơn khiếu nại gửi đến UBND tỉnh Tây Ninh

Ngày 13/03/2012, UBND tỉnh Tây Ninh có gửi cho gia đình tôi Công văn số 828/VP-TDVề việc truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo UBND tỉnh”. Giao cho Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh tiến hành thẩm tra, xem xét, tham mưu đề xuất Ủy ban nhân dân tỉnh. Báo cáo kết quả về Ủy ban nhân dân tỉnh trước ngày 30/4/2012 với 4 nội dung như sau:

1. Về việc UBND xã Cẩm Giang chiếm dụng đất của công dân, khi chưa lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, chưa có quyết định thu hồi đất của cấp có thẩm quyền.

2. Về việc UBND xã Cẩm Giang sử dụng đất không đúng mục đích (Theo Quyết định số 2666/QĐ-UBND ngày 13 tháng 11 năm 2008 của UBND tỉnh Tây Ninh)

3. Về nội dung của Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của UBND huyện Gò Dầu.

4. Về Quyết định số 2666/QĐ-UBND ngày 13 /11/2008 của UBND tỉnh Tây Ninh.

Vào ngày 22/05/2015, UBND tỉnh Tây Ninh ban hành Công văn số 1402/UBND về việc trả lời đơn khiếu nại của bà Lê Thị Bé

Vào ngày 22/06/2015 ông Hồ Văn Hành có đơn kiến nghị về nội dung Công văn 1402 nhưng đến nay chưa được UBND tỉnh Tây Ninh phản hồi.

Vào ngày 30/11/2015 ông Hồ Thanh Long có đơn kiến nghị về nội dung Công văn 1402 đến nay chưa được UBND tỉnh Tây Ninh phản hồi.

Gia đình chúng tôi không đồng ý với nội dung Công văn số 1402 của UBND tỉnh Tây Ninh vì có dấu hiệu vi phạm Luật Khiếu nại và một số nội dung không đúng sự thật làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

 

1. Nội dung số 1 về quá trình sử dụng đất trong Công văn 1402

Thứ nhất: Trong các lần đối thoại cũng như kết quả giải quyết khiếu nại của UBND xã Cẩm Giang, UBND huyện Gò Dầu, UBND tỉnh Tây Ninh chưa bao giờ viện dẫn được các căn cứ pháp luật cũng như các chứng cứ cụ thể để cho rằng việc sử dụng đất của bà Bé là bất hợp pháp. Công văn 1402 cho rằng khiếu nại của bà Bé không có cơ sở pháp lý là cố tình tước đi quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Gia đình tôi đã nhiều lần chứng minh việc sử dụng đất hợp pháp của mình bằng các giấy tờ hợp pháp mà Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã cấp cho gia đình tôi và căn cứ pháp luật trước đây cũng như các quy định của pháp luật hiện hành cụ thể như:

·  Chỉ thị  299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ;

·  Điều 1, Luật Đất đai năm 1988;

·  Khoản 11 Điều 2, Quyết định số 13/HĐBT ngày 01/02/ 1989 Hội đồng Bộ trưởng

·  Điều 4 Nghị định số 30-HĐBT ngày 23/3/1989 Hội đồng Bộ trưởng;

·  Luật Đất đai năm 1993;

·  Công văn số 1568/BTNMT-ĐKTKĐĐ, ngày 25 tháng 04 năm 2007 của Bộ Tài nguyên và Môi trường;

·  Điểm b khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003;

·  Điểm b khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai năm 2013

Điều 4 Nghị định số 30-HĐBT ngày 23/3/1989 của Hội đồng Bộ trưởng quy định “Người đang sử dụng đất hợp pháp là người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người có tên trong sổ địa chính” 

Đủ điều kiện được Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai 2013 “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993”.

Thứ hai: Khi không tìm được các căn cứ pháp luật cụ thể nào, để cho rằng việc sử dụng đất của bà Bé là bất hợp pháp, thì UBND tỉnh Tây Ninh cho rằng các cơ quan có thẩm quyền sơ xuất trong thời gian dài từ năm (1975 – 1997) khi cấp đất cũng như giấy tờ đối với 2 thửa đất 149, 98 cho bà Bé. Nội dung này đã phủ nhận chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước trước đây. Cụ thể là Nhà nước giao đất cho các Tập đoàn sản xuất nông nghiệp, tập đoàn mới giao lại cho các Tập đoàn viên canh tác sản xuất và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước bằng các chỉ thị thiết thực mang lại lợi ích cho người dân và được người dân cả nước đồng tình ủng hộ như:

·  Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 3/5/1983 của Ban Bí thư về việc hoàn thành điều chỉnh ruộng đất, đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở các tỉnh Nam Bộ;

·  Chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 30-HĐBT ngày 23/3/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thi hành Luật Đất đai năm 1988;

·  Quyết định số 13-HĐBT ngày 01/2/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về việc giải quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất;

·  Nghị định số 64-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ .

Ai đã từng sống trong thời kỳ đó điều biết rằng sau năm 1975 toàn bộ ruộng đất ở miền Nam đều phải đưa vào tập đoàn, hợp tác xã nông nghiệp theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ai ai cũng biết, sau đó do mô hình này không hiệu quả nên toàn bộ tập đoàn, hợp tác xã nông nghiệp ở miền Nam phải giải thể, thay thế bằng chính sách khoán sản phẩm (tức chia ruộng) nghĩa là giao đất cho từng hộ gia đình để canh tác. Diện tích đất được giao tính trên số nhân khẩu trong từng hộ gia đình dựa trên cơ sở pháp lý là điểm b Khoản 1 Điều 19 Nghị định số 30-HĐBT ngày 23/3/1989 của Hội đồng Bộ trưởng.

Trong đó gia đình bà Lê Thị Bé (6 nhân khẩu) được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giao cho bà Lê Thị Bé diện tích 3750m2 bao gồm 2 thửa đất: thửa 149 tờ bản đồ số 01 thuộc xứ đồng Hố Cạn với diện tích là 3550m2 ký hiệu (ĐM) thuộc Tập đoàn 1, ấp Cẩm Thắng, xã Cẩm Giang, huyện Gò Dầu và thửa 98 với diện tích 200m2 ký hiệu (TC) và được cấp thẩm quyền là UBND huyện Gò Dầu cấp Giấy chứng nhận đã đăng ký ruộng đất số: 282/ĐKRĐ cấp ngày 7/11/1989 theo chủ trương chính sách đất đai thời bấy giờ. Việc cấp giấy này được thực hiện theo trình tự thủ tục trên cơ sở pháp lý là “Chỉ thị 299 của Thủ tướng về công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký ruộng đất trong cả nước” được thông báo rộng rãi trên cả nước.

Nếu có cơ sở cho rằng đất này thuộc quyền sử dụng của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh tại sao tại thời điểm đó Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh không kê khai đăng ký theo Chỉ thị 299 của Thủ tướng Chính phủ???

Thứ ba: Về nội dung Công văn 1402 cho rằng thửa đất 149 thuộc quyền quản lý của Nhà nước?. Đất đai trên Lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có phần đất nào không thuộc quyền quản lý của Nhà nước? Điều này đã được Hiến pháp quy định rõ.

Sau năm 1975 thửa đất 149 do bà Bé đứng tên được Tập đoàn 1, ấp Cẩm Thắng, xã Cẩm Giang quản lý và giao cho cho Tập đoàn viên là bà Bé canh tác sản xuất và nộp thuế cho Nhà nước. Vậy thì Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh sử dụng thửa đất trên theo hình thức nào từ năm (1975 -1997)? mà trong Công văn 1402 chưa nêu được. Năm (1997- 2008) tức là thời điểm quân đội sử dụng đất của gia đình tôi để trồng cây theo hình thức lấy đại, không bồi thường và cũng không có quyết định thu hồi đất. Hành vi này có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng Điều 21 Luật Đất đai năm 1993 và Nghị định của Chính phủ số 90-CP ngày 17/8/1994 Ban hành quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.

Điều cốt lõi mà người dân đặt ra ở đây ai có quyền sử dụng hợp pháp thửa đất 149 bà Bé hay Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh. Trong trường hợp này căn cứ theo khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 nay khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 thì chỉ Tòa án mới có quyền phán quyết việc này, nhưng UBND tỉnh Tây Ninh, UBND huyện Gò Dầu đã thay lời của Tòa án ban hành công văn có nội dung khi thì cho rằng 2 thửa đất trên thuộc quyền sử dụng của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, khi thì cho rằng chính quyền đã sơ xuất khi cấp thửa đất trên cho gia đình tôi, việc làm này không đúng quy định của pháp luật và trái thẩm quyền? Khi ban hành công văn, UBND tỉnh Tây Ninh cần cẩn trọng xem xét nội dung nào có đầy đủ chứng cứ hoặc đủ căn cứ pháp lý thì ban hành. Còn ban hành công văn không đúng sự thật chỉ làm cho người dân mất niềm tin vào các Cơ quan ban hành cụ thể ở đây là Công văn 1402 có nội dung cho rằng bà Bé đồng ý trả đất cho Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Tây Ninh.

“Về vấn đề bà Bé trả đất” đã được ông Nguyễn Thành Tâm chức vụ Chủ tịch UBND xã Cẩm Giang phát biểu trong phần kết luận tại cuộc đối thoại với đầy đủ đại diện các Cơ quan ban nghành bao gồm: Phòng Tiếp dân; Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh Tây Ninh; Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, UBND huyện Gò Dầu, UBND xã Cẩm Giang vào ngày 7/11/2013 ở hội trường UBND xã Cẩm Giang “Trước đây, có 8 hộ sản xuất ở đây, cũng có Giấy chứng nhận đã đăng ký ruộng đất như hộ ông Hành. Sau này các hộ đồng ý trả đất cho Bộ Chỉ huy quân sự, còn hộ ông Hành không đồng ý”. Gia đình tôi nhiều lần khẳng định về điều này trong các biên bản làm việc với UBND xã Cẩm Giang. Đất này được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giao cho bà Bé canh tác sản xuất theo chủ trương của Đảng và Nhà nước trước đây. Gia đình tôi không giành trâu, cướp đất của ai mắc gì phải trả, trừ khi Nhà nước thu hồi đúng theo quy định của pháp luật.

Thứ tư: Việc nội dung cho rằng bà Bé trả đất lại cho Bộ Chỉ huy quận sự tỉnh Tây Ninh (Nội dụng này là không đúng sự thật như đã lập luận tại nội dung thứ ba). Giả sử có cơ sở cho rằng một phần của thuộc thửa 149 thuộc quyền của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh nay chính quyền tỉnh Tây Ninh “đòi lại”, chẳng khác nào chính quyền tỉnh Tây Ninh thừa nhận việc Nhà nước đòi lại đất Nhà nước đã giao cho Tập đoàn viên là bà Bé trực thuộc Tập đoàn 1, ấp Cẩm Thắng, xã Cẩm Giang canh tác sản xuất theo chủ trương chính sách của Nhà nước trước đây, thời kỳ đất thuộc các tập đoàn sản xuất nông nghiệp? Việc làm này của chính quyền tỉnh Tây Ninh không phù hợp với pháp luật được quy định tại Khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai 2003 nay là khoản 5 Điều 26 Luật Đất đai 2013 “Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”

Thứ năm: Trích từ công văn 1402“Các nghành chức năng đã kiểm tra đối chiếu thực tế thì thửa đất số 149, tờ bản đồ số 1 diện tích 3550m2 do bà Lê Thị Bé đứng tên trên Bản đồ 299 nằm trong thửa số 14, tờ bản đồ số 5 xã Cẩm Giang (bản đồ đo lưới 2005) có tổng diện tích là 34165m2 được UBND tỉnh Tây Ninh giao cho UBND xã Cẩm Giang quản lý theo Quyết định 2666/QĐ-UBND ngày 13/11/2008

Điều đó chứng tỏ rằng nguồn gốc thửa số 14 có diện tích 34165m2 có nguồn gốc được lấy từ một phần của thửa số 149 do bà Bé đứng tên và có tên trong sổ địa chính xã Cẩm Giang  (chứ không phải thu hồi theo đúng trình tự thủ tục được quy định tại Luật Đất đai năm 2003 và Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ).

Thửa đất 149 hiện nay do bà Bé đứng tên vẫn chưa bị Nhà nước thu hồi đất, do cấp có thẩm quyền chưa ra quyết định thu hồi diện tích đất nêu trên của gia đình tôi. Nhưng vào ngày 13/11/2008 UBND tỉnh Tây Ninh ban hành Quyết định số 2666/QĐ-UBND giao đất cho UBND xã Cẩm Giang trong đó có thửa 149 của bà Bé. Việc làm này không phù hợp với các quy định pháp luật về đất đai, xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Bé cụ thể là vi phạm Điều 32 Luật Đất đai 2003Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ.

Sau khi nhận được số diện tích đất nêu trên. UBND xã Cẩm Giang sử dụng một phần diện tích được giao trong đó có diện tích đất của gia đình tôi, để trồng mì trái mục đích sử dụng trong thời gian dài, người dân đã nhiều lần làm đơn tố cáo hành vi này gửi đến UBND huyện Gò Dầu, UBND tỉnh Tây Ninh nhưng không có kết quả giải quyết.

 

2. Nội dung số 2 trong Công văn 1402

“Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của UBND huyện Gò Dầu”

Thứ nhất: Công văn 1402 cho rằng gia đình tôi khiếu nại hành vi chiếm dụng đất của UBND xã Cẩm Giang là Khiếu nại hành vi hành chính?. Nội dung này không đúng với bản chất vụ việc. Giải thích từ ngữ theo Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2010.

Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật

Người dân khiếu nại hành vi chiếm dụng đất của UBND xã Cẩm Giang. Đây thuộc dạng tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa bà Bé với UBND xã Cẩm Giang. Cụ thể ở đây bà Bé có những giấy tờ được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 do đó căn cứ  theo khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 (hiện nay là điểm b, khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai và khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013) thì tranh chấp này do Tòa án nhân dân giải quyết, với những căn cứ nêu trên thì vụ việc tranh chấp quyền sử dụng đất giửa bà Bé với UBND xã Cẩm Giang không thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND các cấp, nên Quyết định số 95/QĐ-UBND ngày 17/8/2011 do Chủ tịch UBND xã Cẩm Giang ban hành và Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 do Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu ban hành là không đúng thẩm quyền và không có giá trị pháp lý.

Thứ hai: Tại sao UBND tỉnh Tây Ninh mâu thuẩn với chính mình trả lời bất nhất trong việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Hồ Văn Hành ban đầu thì ban hành “Công văn số 828/VP-TD ngày 13/03/2012 do ông Nguyễn Hoàng Nam phó Chánh văn phòng UBND tỉnh ký thụ lý”, sau 3 năm thì ban hành công văn trả lời là không có cơ sở thụ lý?.

Mặc khác “Tại Điều 2 của Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của UBND huyện Gò Dầu có hướng dẫn khởi kiện vụ án hành chính hoặc gửi Đơn khiếu nại tiếp theo đến Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh”?

Thụ lý đơn khiếu nại, tố cáo ngày 1/3/2012 của ông Hồ Văn Hành đến nay đã hơn 3 năm rồi ban hành công văn trả lời đơn khiếu nại theo hình thức công văn là không đúng với quy định tại Điều 17 Nghị định 136/2006/NĐ-CP của Chính phủ; Điều 37, Điều 38 Luật Khiếu nại và vi phạm thời hiệu giải quyết đơn khiếu nại được quy định tại Điều 36 Luật Khiếu nại tố cáo năm 1998 và sửa đổi bổ sung năm 2005. Dù người dân và các Cơ quan báo chí nhiều lần chuyển đơn nhắc nhở. Hành vi này đã làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của người dân đã được pháp luật quy định.

 

3. Nội dung số 3 trong Công văn 1402

“Yêu cầu xem xét cấp Giấy chứng nhận QSDĐ đối với phần diện tích còn lại khoảng 530m2 ”

Công văn 1402 cho rằng “Đối chiếu bản đồ và kiểm tra thực địa thì xác định phần diện tích đất 530m2 nêu trên nằm trong phần đất mà UBND tỉnh Tây Ninh giao cho UBND xã Cẩm Giang theo Quyết định 2666”.

   Đây là nội dung không đúng sự thật. Nhìn trên bản đồ kèm theo trong Quyết định 2666 thì bất cứ người nào có kiến thức hoặc không có kiến thức về bản đồ cũng có thể cảm nhận rõ phần đất trên nằm ngoài phạm vi quy hoạch và trên thực địa do mấy ông cắm cũng thể hiện phần đất trên nằm ngoài phạm vi quy hoạch. Có thể cán bộ tham mưu cho UBND tỉnh không đọc được bản vẽ kèm theo Quyết định 2666 và không kiểm tra thực địa (Vì cột mốc số 3 nằm trước cửa nhà tôi cách ranh đất dân là 9,39m trên bản đồ kèm theo Quyết định 2666 cũng thể hiện điều đó và gia đình tôi đã đo kiểm tra đúng theo bản vẽ là 9,39m). Do đó có thể khẳng định rằng phần đất có diện tích khoảng 530m2 do ông Hành đang trồng cây bạch đàn nằm ngoài phạm vi quy hoạch theo Quyết định 2666

 

4. Nội dung số 4 trong Công văn số 828/VP-TD ngày 13/3/2012 của Văn phòng UBND tỉnh

Thứ nhất: Việc người dân ở thôn quê đâu có ai hiểu biết hết các quy định của pháp luật cứ thấy ông nào, tổ chức nào chiếm đất thì cứ khiếu nại chứ đâu biết UBND xã Cẩm Giang được giao đất bằng quyết định không phù hợp với các quy định của pháp luật cụ thể ở đây là QĐ2666. Với cách giải quyết bỏ bớt nội dung khiếu nại trong Công văn 1402, UBND tỉnh Tây Ninh đã bỏ qua nội dung khiếu nại thứ 4 thuộc thẩm quyền giải quyết của mình “Quyết định số 2666/QĐ-UBND ngày 13 tháng 11 năm 2008 của UBND tỉnh Tây Ninhvà nội dung tố cáo trong Đơn khiếu nại ngày 1/3/2012 của ông Hồ Văn để nhằm mục đích gì? rồi còn kết luật sẽ không xem xét nội dung khiếu nại của ông Hồ Văn Hành là không phù hợp với pháp luật được quy định tại Điều 23 Luật Khiếu nại tố cáo năm 1998 và sửa đổi bổ sung năm 2005 hiện nay là Điều 21 Luật Khiếu nại năm 2011.

Thứ hai: Việc chậm trể trong việc giải quyết đơn khiếu nại ngày 1/3/2012 của ông Hồ Văn Hành hơn 3 năm, nhưng chưa được Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh công khai giải thích và xin lỗi người dân. Dù trong các đơn kiến nghị trước đây người dân đã nhiều lần nhắc đến.

  Kết luận: Điều cốt lõi mà người dân cần là một Lãnh đạo có tài, có đức, có dũng cảm nhìn nhận thấu đáo những khiếu nại của người dân để giải quyết khiếu nại dựa trên nền tản là các căn cứ pháp luật chứ không phải tìm cách đối chọi với người dân, giải quyết khiếu nại theo kiểu bỏ bớt nội dung khiếu nại rồi từ đó sử dụng công cụ khác để ban hành công văn không thụ lý khiếu nại của người dân là chưa thực hiện di huấn của Bác Hồ “Đồng bào có oan ức mới khiếu nại hoặc chưa hiểu rõ chính sách của Đảng của Chính phủ mà khiếu nại. Ta phải giải quyết nhanh, tốt thì đồng bào thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm, lo lắng đến quyền lợi của họ. Do đó, mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ ngày càng được cũng cố hơn”.

Nhằm kịp thời giải quyết những thắc mắc, kiến nghị của người dân. Đồng thời thể hiện tinh thần “Sống làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật”. Kính mong Chủ tịch HĐND tỉnh Tây Ninh; Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh sớm quan tâm xem xét giải quyết những kiến nghị của người dân.

1. Đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh trả lời cho người dân được rõ. Căn cứ theo quy định của luật nào? Để UBND tỉnh Tây Ninh lấy một phần thửa đất 149 của bà Bé không có quyết định thu hồi, không bồi hoàn theo quy định của Luật Đất đai và Nghị định hướng dẫn của Chính phủ rồi ban hành Quyết định 2666/QĐ-UBND giao thửa đất trên cho UBND xã Cẩm Giang. Quyết định này có dấu hiệu vi phạm các quy định pháp luật về đất đai, xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Bé cụ thể là vi phạm Điều 32 Luật Đất đai 2003Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ. Kính mong Các cấp thẩm quyền điều tra làm rõ để quyền sử dụng đất của người dân được đảm bảo đúng theo quy định pháp luật.

2. Thửa đất 149 do bà Bé đứng tên có tên trong sổ địa chính xã Cẩm Giang đủ điều kiện được cấp Quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 nay là điểm b khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai năm 2013. Do đó căn cứ theo khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 hiện nay khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 thì tranh chấp này do Tòa án nhân dân giải quyết. Nên việc UBND tỉnh Tây Ninh cho rằng thửa đất 149 thuộc quyền sử dụng của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh là không có căn cứ và trái thẩm quyền.

3. Kiến nghị UBND tỉnh Tây Ninh cung cấp chứng cứ, các căn cứ pháp lý để cho rằng các cấp thẩm quyền trước đây đã sơ xuất khi cấp đất và giấy tờ đất thửa số 149 và thửa số 98 cho gia đình tôi.

4. Yêu cầu UBND tỉnh Tây Ninh cung cấp chứng cứ Giấy chứng nhận đã đăng ký ruộng đất số 282/ĐKRĐ cấp ngày 7/11/1989 do bà Lê Thị Bé đứng tên trong đó có 2 thửa đất 149 và 98 tờ bản đồ số 01 (BĐ 299) là thuộc quyền sử dụng của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Tây Ninh được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao đất theo quyết định nào? hoặc “giấy tờ xác minh là đất tiếp quản, có tên trong sổ địa chính của xã, phường, thị trấn được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận đã sử dụng ổn định và không có tranh chấp”.( Theo điểm d Khoản 1 Điều 138 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/12/2004 của Chính phủ)

5. Yêu cầu UBND tỉnh Tây Ninh cung cấp giấy tờ bà Bé ký trả đất cho Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh (Nếu không cung cấp được. Đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh phải xin lỗi bà Bé về nội dung không đúng sự thật này)

6. Tại Điều 2 của Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu đã nêu “ Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại này, nếu không đồng ý thì bà Lê Thị Bé có quyền khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu. Sau đó gia đình tôi gửi đơn đến UBND tỉnh Tây Ninh và được cơ quan này thụ lý bằng Công văn số 828/VP-TD, rồi sau đó UBND tỉnh Tây Ninh ban hành công văn trả lời đơn khiếu nại số 1402 có nội dung “ Khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai” nên UBND tỉnh không thụ lý? Vậy thì Điều 2 của Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu đúng ở chổ nào?. Đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh trả lời cho người dân được rõ?.

Mặc khác đất bà Bé có trên trong sổ Địa chính xã Cẩm Giang. Căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 và khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 (hiện nay là điểm b, khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai và khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013) thì tranh chấp này do Tòa án nhân dân giải quyết, không thuộc thẩm quyền UBND các cấp. Đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh giải thích Quyết định giải quyết tranh chấp số 95/QĐ-UBND ngày 17/8/2011của Chủ tịch UBND xã Cẩm Giang và Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu đúng theo quy định của luật nào???

7. Giả sử cứ tạm cho rằng đất bà Bé không có giấy tờ theo quy định của Luật Đất đai thì việc tranh chấp đất giữa bà Bé với tổ chức là UBND xã Cẩm Giang vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh được quy định tại khoản 2 Điều 160 Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ. Vậy thì Quyết định giải quyết tranh chấp số 95/QĐ-UBND ngày 17/8/2011 của Chủ tịch UBND xã Cẩm Giang và Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu là vượt quá thẩm quyền và trái pháp luật? Việc UBND tỉnh Tây Ninh ban hành Công văn 1402 có nhiều điều bất ổn trong cách vận dụng các căn cứ pháp luật như đã nêu trên thì Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh cần phải dũng cảm hủy bỏ Công văn 1402/UBND ngày 22/5/2015 của UBND tỉnh Tây Ninh về việc trả lời đơn khiếu nại của bà Lê Thị Bé. Đồng thời xử lý kỷ luật cán bộ đã tham mưu cho UBND tỉnh Tây Ninh ban hành công văn có nhiều nội dung không đúng quy định pháp luật và không đúng sự thật gây thiệt hại đến lợi ích của người dân. 

8. Thay vì ra Quyết định giải quyết đơn khiếu nại của ông Hồ Văn Hành (theo ủy quyền của bà Lê Thị Bé), UBND tỉnh lại ban hành Công văn để trả lời đơn khiếu nại của người dân. Việc làm trên của UBND tỉnh Tây Ninh đã phạm phải trường hợp bị nghiêm cấm khi giải quyết khiếu nại được quy định tại khoản 3 Điều 6 Luật Khiếu nại năm 2011 Ra quyết định giải quyết khiếu nại không bằng hình thức ra quyết định.

9.  Kiến nghị Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh có ý kiến chỉ đạo hoặc tự mình ban hành Quyết định hủy bỏ Quyết định giải quyết tranh chấp số 95/QĐ-UBND ngày 17/8/2011 của Chủ tịch UBND xã Cẩm Giang và Quyết định số 03/QĐ-UBND ngày 13/2/2012 của Chủ tịch UBND huyện Gò Dầu.

10. Kiến nghị Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh ban hành quyết định giải quyết Đơn khiếu nại ngày 1/3/2012 của ông Hồ Văn Hành theo đúng quy định của pháp luật. Nhằm để người dân có cơ sở pháp lý làm căn cứ khởi kiện vụ án hành chính hoặc chấm dứt khiếu nại.

11. Kiến nghị Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh công khai xin lỗi bà Bé về việc chậm trể trong việc giải quyết đơn khiếu nại ngày 1/3/2012 của ông Hồ Văn Hành. Điều này thể hiện việc ứng xử có văn hóa giữa các cơ quan công quyền với người dân.

12. Kiến nghị xác minh làm rõ việc trước đây người dân tố cáo việc UBND xã Cẩm Giang lấy một phần đất được giao theo QĐ2666 trong đó có đất của bà Bé để trồng mì (trái mục đích sử dụng) trong thời gian dài nhưng UBND huyện Gò Dầu và UBND tỉnh Tây Ninh không giải quyết?(Đơn khiếu nại tố cáo ngày 28/9/2011 gửi UBND huyện Gò Dầu và Đơn khiếu nại tố cáo ngày 1/3/2012 gửi UBND tỉnh Tây Ninh)

Nội dung trả lời:
File đính kèm:

Chuyển trả câu hỏi

Lý do chuyển trả:

Đăng nhập

Tên đăng nhập:
Mật khẩu:

Đổi mật khẩu

Mật khẩu cũ:
Mật khẩu mới:
Nhập lại mật khẩu mới: