(GMT+7)

Chi tiết câu hỏi

Câu hỏi: Thủ tục Hộ tịch
Người hỏi : Kim Duyên     Số điện thoại:      Email:      Địa chỉ: Hòa Thành, Tây Ninh
Ngày hỏi: 02/03/2018 - 21 Giờ 59 phút     Ngày chuyển: 05/03/2018 - 10 Giờ 51 phút

Nội dung câu hỏi:

Kính gửi: Cổng thông tin điện tử Tây Ninh

                   Sở Tư pháp tỉnh Tây Ninh

Lần trước tôi có hỏi về Thủ tục hộ tịch và đã được Sở Tư pháp trả lời vào ngày 08/09/2017 như sau:

“Tại Khoản 2 Điều 13 Thông tư 15/2015/TT- BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp quy định:

“2. Trường hợp con do người vợ sinh ra trước thời điểm đăng ký kết hôn, đã được đăng ký khai sinh không có thông tin về người cha, vợ chồng có văn bản thừa nhận là con chung thì không phải làm thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con mà làm thủ tục bổ sung hộ tịch để ghi bổ sung thông tin về người cha trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh của người con.

Như vậy, nếu trường hợp của anh/chị đúng là thuộc trường hợp trên thì không phải làm thủ tục đăng ký nhận cha con mà chỉ cần có văn bản thừa nhận là con chung của vợ chồng và làm thủ tục bổ sung hộ tịch để ghi bổ sung thông tin về người cha trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh của người con.

Tuy nhiên, ở đây anh/chị cần lưu ý quy định trên áp dụng khi cha và mẹ trẻ đã đăng ký kết hôn nhưng trẻ sinh ra trước thời điểm đăng ký kết hôn, còn trường hợp cha, mẹ trẻ chưa đăng ký kết hôn thì phải làm thủ tục nhận cha, con.”

            Trường hợp của tôi:

1/ Giấy khai sinh của con tôi được đăng ký ngày 18/8/2016 và không có thông tin người Cha.

2/ Giấy chứng nhận kết hôn của vợ chồng tôi ngày 09/8/2017

3/ Vợ chồng tôi có văn bản thừa nhận con chung, cả hai cùng cam kết và ký tên.

            Như vậy, trường hợp của tôi hoàn toàn đúng với Khoản 2 Điều 13 Thông tư 15/2015/TT- BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp thì tại sao Cán bộ Tư pháp Xã nơi tôi đăng ký khai sinh cho bé không chịu giải quyết cho tôi bổ sung thông tin của CHA vào giấy khai sinh???

            Tôi đã trực tiếp trình bày và khiếu nại trường hợp của tôi với Lãnh đạo UBND Xã nhưng nhận được câu trả lời rằng “Đó là chuyên môn của bộ phận Tư pháp, ở cương vị Lãnh đạo tôi phải lắng nghe tham mưu của anh em trực tiếp làm công tác đó”.  Vậy một khi cấp dưới của mình tham mưu SAI thì ở cương vị Lãnh đạo cũng mù quán mà nghe theo sao???

Tôi rất thắc mắc tại sao khi tôi trình bày Thông tư 15/2015/TT- BTP thì Cán bộ Tư pháp và Lãnh đạo UBND Xã đọc xong thì lại làm lơ xem như không hiểu nội dung của văn bản nói gì hoặc một khi đã làm sai thì phải bao che cho nhau để giữ gìn thể diện của Xã mình??? Và cứ khăn khăn rằng trường hợp của tôi phải làm thủ tục nhận cha – con.

Tôi rất bức xúc và nói rằng: “Như vậy Thông tư 15/2015/TT- BTP không có hiệu lực, những văn bản quy phạm pháp luật của Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam không bằng lời nói của các anh sao?”

Như vậy, một người dân thấp cổ bé họng như tôi phải cam chịu trước cách làm việc sai trái? Tôi rất mong Sở Tư pháp hướng dẫn tôi khiếu nại đến cơ quan chức năng nào hoặc làm sao giải quyết sớm nhất để hoàn chỉnh Khai sinh cho bé chuẩn bị đi học.

Chân thành cảm ơn.


Trả lời câu hỏi
Đơn vị trả lời: Sở Tư pháp     
Thời gian trả lời: 06/03/2018 - 16 Giờ 16 phút
Đánh giá câu trả lời:     0 lượt đánh giá

Nội dung câu trả lời:

Trả lời:

Trường hợp của bạn nếu đúng như bạn trình bày, cụ thể:

1/ Giấy khai sinh của con được đăng ký ngày 18/8/2016 và không có thông tin người cha.

2/ Giấy chứng nhận kết hôn đăng ký ngày 09/8/2017

3/ Vợ chồng bạn đã có văn bản thừa nhận con chung, cả hai cùng cam kết và ký tên.

  Như vậy, để ghi thông tin người cha vào Giấy khai sinh, căn cứ Khoản 2 Điều 13 Thông tư 15/2015/TT- BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp thì không phải làm thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con mà làm thủ tục bổ sung hộ tịch để ghi bổ sung thông tin về người cha trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh của người con. Nếu UBND xã yêu cầu phải đăng ký nhận cha, mẹ, con là không đúng quy định.

Tại Khoản 1 Điều 7 Luật khiếu nại năm 2011 quy định:

1. Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Căn cứ theo quy định trên thì bạn có thể gửi đơn khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bạn đã nộp hồ sơ. Trường hợp bạn không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

 


Lịch sử chỉnh sửa

Chuyển câu hỏi:

 Đơn vị tiếp nhận:



 Ghi chú:

Thông tin câu hỏi:

 Tiêu đề câu hỏi: Thủ tục Hộ tịch
 Nội dung câu hỏi:

Kính gửi: Cổng thông tin điện tử Tây Ninh

                   Sở Tư pháp tỉnh Tây Ninh

Lần trước tôi có hỏi về Thủ tục hộ tịch và đã được Sở Tư pháp trả lời vào ngày 08/09/2017 như sau:

“Tại Khoản 2 Điều 13 Thông tư 15/2015/TT- BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp quy định:

“2. Trường hợp con do người vợ sinh ra trước thời điểm đăng ký kết hôn, đã được đăng ký khai sinh không có thông tin về người cha, vợ chồng có văn bản thừa nhận là con chung thì không phải làm thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con mà làm thủ tục bổ sung hộ tịch để ghi bổ sung thông tin về người cha trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh của người con.

Như vậy, nếu trường hợp của anh/chị đúng là thuộc trường hợp trên thì không phải làm thủ tục đăng ký nhận cha con mà chỉ cần có văn bản thừa nhận là con chung của vợ chồng và làm thủ tục bổ sung hộ tịch để ghi bổ sung thông tin về người cha trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh của người con.

Tuy nhiên, ở đây anh/chị cần lưu ý quy định trên áp dụng khi cha và mẹ trẻ đã đăng ký kết hôn nhưng trẻ sinh ra trước thời điểm đăng ký kết hôn, còn trường hợp cha, mẹ trẻ chưa đăng ký kết hôn thì phải làm thủ tục nhận cha, con.”

            Trường hợp của tôi:

1/ Giấy khai sinh của con tôi được đăng ký ngày 18/8/2016 và không có thông tin người Cha.

2/ Giấy chứng nhận kết hôn của vợ chồng tôi ngày 09/8/2017

3/ Vợ chồng tôi có văn bản thừa nhận con chung, cả hai cùng cam kết và ký tên.

            Như vậy, trường hợp của tôi hoàn toàn đúng với Khoản 2 Điều 13 Thông tư 15/2015/TT- BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp thì tại sao Cán bộ Tư pháp Xã nơi tôi đăng ký khai sinh cho bé không chịu giải quyết cho tôi bổ sung thông tin của CHA vào giấy khai sinh???

            Tôi đã trực tiếp trình bày và khiếu nại trường hợp của tôi với Lãnh đạo UBND Xã nhưng nhận được câu trả lời rằng “Đó là chuyên môn của bộ phận Tư pháp, ở cương vị Lãnh đạo tôi phải lắng nghe tham mưu của anh em trực tiếp làm công tác đó”.  Vậy một khi cấp dưới của mình tham mưu SAI thì ở cương vị Lãnh đạo cũng mù quán mà nghe theo sao???

Tôi rất thắc mắc tại sao khi tôi trình bày Thông tư 15/2015/TT- BTP thì Cán bộ Tư pháp và Lãnh đạo UBND Xã đọc xong thì lại làm lơ xem như không hiểu nội dung của văn bản nói gì hoặc một khi đã làm sai thì phải bao che cho nhau để giữ gìn thể diện của Xã mình??? Và cứ khăn khăn rằng trường hợp của tôi phải làm thủ tục nhận cha – con.

Tôi rất bức xúc và nói rằng: “Như vậy Thông tư 15/2015/TT- BTP không có hiệu lực, những văn bản quy phạm pháp luật của Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam không bằng lời nói của các anh sao?”

Như vậy, một người dân thấp cổ bé họng như tôi phải cam chịu trước cách làm việc sai trái? Tôi rất mong Sở Tư pháp hướng dẫn tôi khiếu nại đến cơ quan chức năng nào hoặc làm sao giải quyết sớm nhất để hoàn chỉnh Khai sinh cho bé chuẩn bị đi học.

Chân thành cảm ơn.

 Lý do từ chối:

Trả lời câu hỏi

Nội dung câu hỏi:

Kính gửi: Cổng thông tin điện tử Tây Ninh

                   Sở Tư pháp tỉnh Tây Ninh

Lần trước tôi có hỏi về Thủ tục hộ tịch và đã được Sở Tư pháp trả lời vào ngày 08/09/2017 như sau:

“Tại Khoản 2 Điều 13 Thông tư 15/2015/TT- BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp quy định:

“2. Trường hợp con do người vợ sinh ra trước thời điểm đăng ký kết hôn, đã được đăng ký khai sinh không có thông tin về người cha, vợ chồng có văn bản thừa nhận là con chung thì không phải làm thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con mà làm thủ tục bổ sung hộ tịch để ghi bổ sung thông tin về người cha trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh của người con.

Như vậy, nếu trường hợp của anh/chị đúng là thuộc trường hợp trên thì không phải làm thủ tục đăng ký nhận cha con mà chỉ cần có văn bản thừa nhận là con chung của vợ chồng và làm thủ tục bổ sung hộ tịch để ghi bổ sung thông tin về người cha trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh của người con.

Tuy nhiên, ở đây anh/chị cần lưu ý quy định trên áp dụng khi cha và mẹ trẻ đã đăng ký kết hôn nhưng trẻ sinh ra trước thời điểm đăng ký kết hôn, còn trường hợp cha, mẹ trẻ chưa đăng ký kết hôn thì phải làm thủ tục nhận cha, con.”

            Trường hợp của tôi:

1/ Giấy khai sinh của con tôi được đăng ký ngày 18/8/2016 và không có thông tin người Cha.

2/ Giấy chứng nhận kết hôn của vợ chồng tôi ngày 09/8/2017

3/ Vợ chồng tôi có văn bản thừa nhận con chung, cả hai cùng cam kết và ký tên.

            Như vậy, trường hợp của tôi hoàn toàn đúng với Khoản 2 Điều 13 Thông tư 15/2015/TT- BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp thì tại sao Cán bộ Tư pháp Xã nơi tôi đăng ký khai sinh cho bé không chịu giải quyết cho tôi bổ sung thông tin của CHA vào giấy khai sinh???

            Tôi đã trực tiếp trình bày và khiếu nại trường hợp của tôi với Lãnh đạo UBND Xã nhưng nhận được câu trả lời rằng “Đó là chuyên môn của bộ phận Tư pháp, ở cương vị Lãnh đạo tôi phải lắng nghe tham mưu của anh em trực tiếp làm công tác đó”.  Vậy một khi cấp dưới của mình tham mưu SAI thì ở cương vị Lãnh đạo cũng mù quán mà nghe theo sao???

Tôi rất thắc mắc tại sao khi tôi trình bày Thông tư 15/2015/TT- BTP thì Cán bộ Tư pháp và Lãnh đạo UBND Xã đọc xong thì lại làm lơ xem như không hiểu nội dung của văn bản nói gì hoặc một khi đã làm sai thì phải bao che cho nhau để giữ gìn thể diện của Xã mình??? Và cứ khăn khăn rằng trường hợp của tôi phải làm thủ tục nhận cha – con.

Tôi rất bức xúc và nói rằng: “Như vậy Thông tư 15/2015/TT- BTP không có hiệu lực, những văn bản quy phạm pháp luật của Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam không bằng lời nói của các anh sao?”

Như vậy, một người dân thấp cổ bé họng như tôi phải cam chịu trước cách làm việc sai trái? Tôi rất mong Sở Tư pháp hướng dẫn tôi khiếu nại đến cơ quan chức năng nào hoặc làm sao giải quyết sớm nhất để hoàn chỉnh Khai sinh cho bé chuẩn bị đi học.

Chân thành cảm ơn.

Nội dung trả lời:
File đính kèm:

Chuyển trả câu hỏi

Lý do chuyển trả:

Đăng nhập

Tên đăng nhập:
Mật khẩu:

Đổi mật khẩu

Mật khẩu cũ:
Mật khẩu mới:
Nhập lại mật khẩu mới: